ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ TRÚC LÂM Số: 88 /BC- UBND | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc Trúc Lâm, ngày 18 tháng 8 năm 2019 |
BÁO CÁO
Tóm tắt lịch sử truyền thống
xã Trúc Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa
I. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
1. Điều kiện tự nhiên - xã hội:
Xã Trúc Lâm cách trung tâm huyện Tĩnh Gia 08 km về phía Nam. Phía Đông giáp xã Hải Bình và xã Tĩnh Hải, phía Tây và Tây Nam giáp xã Phú Lâm và xã Tùng Lâm, phía Nam giáp xã Mai Lâm, phía Bắc giáp xã Xuân Lâm và Nguyên Bình. Diện tích tự nhiên 1.581,91 ha, có 3,5 km đường Quốc lộ 1A và đường sắt chạy qua, 4,2 km đường liên xã dài, 15 km đường liên thôn, liên xóm. Có ba hồ đập chứa nước đáp ứng nhu cầu nước tưới phục vụ cho khoảng 210 ha diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Toàn xã có 1.735 hộ, với 6.258 nhân khẩu, trong đó có 85 hộ , 397 tín đồ theo đạo Công giáo, dân cư chia thành 05 thôn.
2. Quá trình hình thành và phát triển
Từ trước năm 1945, các làng Thủ Vĩ (Đại Thủy), Yên Lạc (Giảng Tín), làng Chè (Lan Trà), Hữu Lộc, Dự Quần (làng Dừa) thuộc xã Duyên La Thái, tổng Duyên La (sau đổi thành tổng Tuần La) huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tổng Tuần La được chia thành thành nhiều xã, trong đó có xã Trúc Lâm. Đầu năm 1947, Ba xã:Trà Lâm, Trúc Lâm, Vạn Xuân tháp nhập thành xã Xuân Lâm.
Ngày 12 tháng 9 năm 1954 xã Trúc Lâm chính thức được thành lập trên cơ sở chia tách xã Xuân Lâm thành 2 xã (Trúc Lâm và Xuân Lâm). Năm 1963, thực hiện phong trào khai hoang lập làng mới xã Trúc Lâm tiếp nhận thêm xóm Đại Đồng gồm các hộ của các xã Tân Dân, Hải Lĩnh, Hải Hoà định cư, đến năm 1979 các hộ trên được giao về xã Phú Lâm. Từ đó, Khe Lầy là địa giới giữa xã Trúc Lâm và Phú Lâm. Tháng 6 năm 1981 thực hiện Quyết định của UBND huyện Tĩnh Gia, xã Trúc Lâm tổ chức di chuyển 80 hộ gia đình thuộc HTX Lan Trà và 20 hộ gia đình xóm Khoa Trường thuộc HTX Nam Thanh lên chân núi Chản lập làng mới và thành lập HTX Sơn Trà. Năm 1991 xã Trúc Lâm chia thành 5 thôn: Đại Thủy, Hữu Lộc, Giảng Tín, Lan Trà, Sơn Trà và được duy trì đến nay.
3. Hoạt động kinh tế và văn hóa truyền thống.
3.1. Kinh tế truyền thống.
Từ xa xưa, kinh tế truyền thống của xã chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản, săn bắn, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, phát triển nghề rèn, nghề mộc, nghề thủ công mỹ nghệ.
3.2. Văn hóa truyền thống.
Trên địa bàn xã có những điểm di tích văn hóa như đền thờ Thánh Liễu Mẫu Hạnh (Đền đá ngang), nhà thờ Đạo Công giáo xứ Thanh Thủy (Thôn Giảng Tín). Đình làng thôn Giảng Tín. Trong xã có nhiều dòng họ có từ lâu đời như dòng họ Lê Văn, Dòng họ Hoàng Bá thôn Giảng Tín, dòng họ Nguyễn Đình có Ông Tổ là Nguyễn Đình Loan thi đỗ Tú tài năm Đinh Dậu (1777) thuộc triều Lê. Trong quá trình hình thành làng, xã, quần tụ dân cư và chung tay phát triển kinh tế - xã hội, người dân đã hình thành các giá trị văn hóa lịch sử truyền thống tiêu biểu, vừa phản ánh nét văn hóa chung của nông thôn Việt Nam, vừa có tính đặc thù riêng, đó là tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau chặt chẽ, tạo nên một cộng đồng bền vững.
II. TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ QUA CÁC THỜI KỲ.
1. Thời kỳ trước và trong Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, dưới ách áp bức bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp, bọn địa chủ phong kiến và bè lũ tay sai, nhân dân ta sống trong cảnh Một cổ hai tròng cuộc sống vô cùng cơ cực, đói khổ, tăm tối như không có đường ra.
Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng trong những năm 1930-1931 của huyện Tĩnh Gia nói chung, trong đó các làng của xã Trà Lâm, Trúc Lâm (Trúc Lâm ngày nay) nói riêng, đã góp phần tạo nên cao trào hưởng ứng phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh ở Thanh Hóa.
Từ năm 1936-1939, với sự ảnh hưởng của phong trào vận động dân chủ trong tỉnh, trong huyện, tại các làng của xã Trà Lâm, Trúc Lâm, các phong trào đòi cải lương hương tục và chống cường hào nhũng nhiễu, chia lại công điền, công thổ đã diễn ra khá sôi nổi, góp phần tạo tiền đề tiến tới cao trào vận động giải phóng dân tộc giai đoạn (1939 -1945).
Mờ sáng ngày 20 / 8 / 1945, nhân dân các làng xã Trà Lâm, Trúc Lâm cùng với hàng vạn quần chúng và tự vệ các tổng Sen Trì, Tuần La, Văn Trai, Yên Thái, Vân Trường rầm rập kéo về bao vây phủ Tĩnh Gia. Buộc tri phủ Vũ Thế Hùng phải đầu hàng cách mạng vô điều kiện, sau đó tổng hành quân về sân vận động huyện mít tinh chào đón Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Tĩnh Gia do đồng chí Lê Huy Tuần làm Chủ tịch.
2. Thời kỳ 1945 1954.
Cách mạng tháng Tám thắng lợi, nhân dân các làng của xã Trúc Lâm hăng hái tham gia thực hiện nhiệm vụ xây dựng lực lượng bảo vệ quê hương, chính quyền. Thực hiện lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, toàn xã phát động phong trào hũ gạo tiết kiệm. Mỗi gia đình bớt mỗi bữa nấu cơm những nắm gạo bỏ vào hũ tiết kiệm giúp đỡ những gia đình mất bữa. Chính quyền, Mặt trận vận động những gia đình đang còn thóc, gạo cho các gia đình túng đói vay tạm qua ngày, vận động những người có sức khoẻ vào rừng đào củ mài, củ nghèn, lấy rau má, củ chuối... thay bữa, vận động nhân dân trồng cấy rau màu ngắn ngày chống đói. Với sự sâu sát, tận tụy, nhiệt tình của chính quyền, Mặt trận, nhân dân toàn xã đã đoàn kết, lá lành đùm lá rách, yêu thương giúp đỡ nhau vượt qua nạn đói.
Song song với nhiệm vụ Diệt giặc đói, phong trào Diệt giặc dốt cũng được chính quyền xã phát động rộng rãi. Các lớp Bình dân học vụ được phát triển đều khắp trong các làng. Nhờ áp dụng nhiều biện pháp tích cực trong một thời gian ngắn, đa phần nhân dân đều biết chữ và làm được các phép tính đơn giản, nạn mù chữ căn bản được xóa bỏ.
Ngày 06 tháng 01 năm 1946, cử tri các làng thuộc xã Xuân Lâm lớn, lần đầu tiên được cầm lá phiếu trên tay đi bỏ phiếu để trực tiếp bầu đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp;
Một sự kiện lịch sử có ý nghĩa bước ngoặc diễn ra, ngày 10/10/ 1946 Chi bộ Bắc Sơn, tiền thân của Đảng bộ xã Trúc Lâm ngày nay chính thức được thành lập. Đồng chí Lê Đức Ân được bầu làm Bí thư Chi bộ Bắc Sơn
Đêm ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã Trúc Lâm, không phân biệt trẻ, già, trai, gái, dân tộc, tôn giáo chính thức bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống lại cuộc xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp.
Dưới sự lãnh đạo của Ủy ban kháng chiến, nhân dân toàn xã tích cực tiêu thổ kháng chiến, xây dựng thế trận chiến tranh du kích, sẵn sàng chiến đấu đập tan các cánh quân đổ bộ của thực dân Pháp đánh phá cầu, cống trên quốc lộ 1A, đường sắt, không cho giặc Pháp có điểm cao để trinh sát và đóng quân. Đào hố, đào hầm chống xe tăng của giặc Pháp trên đường quốc lộ và các trục đường chính, trồng tre dày kín xung quanh làng, đào hàng chục km giao thông hào liên thôn, liên xã, mỗi gia đình xây dựng từ 1 đến 2 hầm kèo cất giấu của cải, lương thực thực phẩm, gia súc, gia cầm, thực hiện vườn không nhà trống, không cho giặc " Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh", xây dựng trận địa ở các điểm cao và ở khu vực trọng điểm sẵn sàng chiến đấu.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhân dân xã Trúc Lâm đã động viên 95 người con quê hương tình nguyện tham gia bộ đội, 19 thanh niên gia nhập lực lượng thanh niên xung phong , 1.200 lượt dân công dài hạn và hàng ngàn dân công ngắn hạn tham gia phục vụ các chiến dịch Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào và điện Biên Phủ. Trong đó 11 chiến sĩ ưu tú hy sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, 03 chiến sĩ là thương binh. Trong đợt Tuần lễ vàng toàn xã đã mua hàng trăm phiếu có giá trị từ 1.000 đến 10.000 đồng và ủng hộ nhiều tài sản gái trị cho nền tài chính đất nước.
3. Thời kỳ 1954 đến 1975.
3.1. Giai đoạn 1954-1960, tiến hành khôi phục kinh tế, ổn định đời sống và cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Ngày 12/ 9/1954 xã Trúc Lâm chính thức được thành lập trên cơ sở chia tách xã Xuân Lâm thành 2 xã (Trúc Lâm và Xuân Lâm) đồng chí Lê Văn Thời được cử làm Bí thư, đồng chí Lê Văn Phấn Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Ủy ban hành chính xã, đồng chí Nguyễn Văn Thường - Ủy viên Thường vụ trực Đảng. Cùng với hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân cũng được kiện toàn.
Cuối năm 1955, dưới sự chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban hành chính huyện, xã Trúc Lâm thực hiện thành công cuộc cải cách ruộng đất, thực hiện triệt để khẩu hiệu Người cày có ruộng, nhân dân phấn khởi hăng say lao động sản xuất hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Sau khi hoàn thành kế hoạch ba năm lần thứ nhất (1955-1957), dưới sự lãnh đạo của chi bộ, xã Trúc Lâm hoàn thành cách mạng dân chủ, khôi phục phát triển kinh tế - văn hóa, ổn định đời sống nhân dân.
Năm 1958, Đại hội đảng bộ lần thứ nhất, nhiệm kỳ 1958 1960. Từ năm 1958- 1961 xã đã thành lập được 08 hợp tác xã nông nghiệp, gồm: HTX Hồng Phong (thôn Đại Thủy); Minh Khai (thôn Hữu Lộc) ; Lan Trà, Giảng Tín, Phù cư, Tân Lập, Thống Nhất và Hữu Lan. Cùng với đó hợp tác xã tín dụng, Hợp tác xã mua bán cũng được thành lập.
Năm 1958, Trúc Lâm cùng với nhiều xã trong huyện được công nhận hoàn thành xóa nạn mù chữ, 2/3 dân số phổ cập cấp I. Năm 1960 Trúc Lâm thành lập Trạm xá chăm lo khám chữa các bệnh thông thường cho nhân dân địa phương.
3.2. Giai đoạn 1961-1965, thi đua thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH
Mở đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, đầu năm 1961, căn cứ vào hướng dẫn của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Huyện ủy Tĩnh Gia quyết định chuyển Chi bộ xã Trúc Lâm thành Đảng bộ xã Trúc Lâm. Đồng chí: Hoàng Bá Tạo được bầu Làm Bí thư; đồng chí Hoàng Bá Sếu được bầu làm Phó Bí thư- Chủ tịch UBHC; Đồng chí Lê Văn Thất được bầu làm Thường vụ trực Đảng. Cùng với đó các tổ chức đoàn thể nhân dân cũng được kiện toàn.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ, cán bộ, nhân dân xã vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chi viên sức người, của cải cho tuyền tuyến. Các hợp tác xã ngành nghề phát triển, đời sống xã viên được cải thiện một bước.
23 giờ , ngày 7 /6 /1963, máy bay Mỹ thả 5 tên biệt kích xuống khu vực xóm Yên xã Công Bình (Nông Cống), giáp ranh với một số xã thuộc huyện Tĩnh Gia. Lực lượng vũ trang các xã Trúc Lâm, Tùng Lâm, Các Sơn kịp thời bắt toán biệt kích. Trong chiến công chung, trung đội dân quân thôn Đại Thủy do đồng chí Nguyễn Văn Đàm phối hợp với lực lượng dân quân của xã Trúc Lâm trực tiếp bắt toán biệt kích 5 tên Mỹ - Ngụy.
Thời kỳ này, những người ra đi chiến đấu, phục vụ chiến đấu và những người ở lại hậu phương đều quyết tâm thi đua, lập công xuất sắc, tất cả đều vì Miền Nam ruột thịt và hướng tới ngày thống nhất nước nhà.
3.3. Giai đoạn 1965-1968, xã Trúc Lâm cùng quân dân miền Bắc đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ, tích cực chi viện cho tiền tuyến Miền Nam.
Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng các hoạt động đánh phá ra Miền Bắc nước ta. Lực lượng vũ trang và nhân dân xã Trúc Lâm đã nhanh chóng tổ chức đào, đắp gần 800 hầm chữ A, 4 km hào giao thông, hàng ngàn hố trú ẩn.
Hai bên đường Quốc lộ 1A, huy động nhân dân và dân quân trồng tre, trồng cây ngụy trang và đào đắp hố trú ẩn cá nhân. Các khu vực trọng điểm đánh phá, không tổ chức cho nhân dân sản xuất vào các giờ cao điểm máy bay, tàu chiến của địch thường hay đánh phá. Đối với học sinh, thầy cô giáo và các bậc cha mẹ dạy con, em phòng tránh máy bay, pháo kích, đan mũ rơm, may áo ngụy trang cho các em đến lớp. Xã đội tổ chức các trạm báo động phòng không trên đường Quốc lộ 1A và cắt cử lực lượng trực phòng không, kịp thời báo động cho nhân dân và những người đi đường ẩn nấp.
Ngày 05/5/ 1965, trên núi Khoa Trường, trung đội dân quân trực chiến Trúc Lâm với 2 súng máy phòng không 12,7 ly độc lập bắn rơi 1 máy bay F105 của giặc Mỹ.
Ngày 10 /10/ 1965, dân quân xã Trúc Lâm phối hợp với bộ đội phòng không trên địa bàn xã bắn rơi một máy bay F100 ngay từ loạt đạn đầu.
Ngày 01/3/1967, dân quân xã Trúc Lâm hiệp đồng cùng dân quân xã Hải Thượng chiến đấu bắn rơi 1 máy bay AD4 .
Cùng với nhân dân Miền Bắc, nhân dân xã Trúc Lâm vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu, vừa hăng hái thi đua lao động sản xuất, tạo mọi điêù kiện thuận lơi cho con em đi học, đặc biệt còn huy động hàng trăm con em lên đường phục vụ chiến đấu trên khắp các chiến trường.
3.4. Giai đoạn 1969-1975, cùng quân dân Miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ, tiếp tục chi viện cho tiền tuyến, góp phần giải phóng Miền Nam.
Thực hiện chủ trương mở đường mà tiến, đánh địch mà đi, địch cứ đánh ta cứ đi, đảm bảo 4 đường ra, 3 đường vào chi viện kịp thời cho Miền Nam giành thắng lợi. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy và Huyện ủy, quân và dân huyện Tĩnh Gia, trong đó có xã Trúc Lâm phá núi bạt đồi mở thêm đường mới, làm thêm đường tránh rẽ, sửa chữa kịp thời cầu đường bị đánh phá, đảm bảo cho các đoàn xe, các đoàn quân, các đoàn thuyền nan vượt kênh Nhà Lê vận chuyển hàng hóa vào chiến trường.
Hưởng ứng phong trào Hòn đá chống Mỹ Trúc Lâm huy động toàn dân đóng góp gần 5.000 m3 đá hộc, hàng ngàn cọc tre, cọc gỗ và hàng trăm khối gỗ, huy động hàng chục lần toàn dân sửa đường, san lấp hố bom, lát cầu, chống lầy đảm bảo giao thông, ngày 22/6/1967 một đoàn thuyền nan vận chuyển lương thực vũ khí trên sông bị máy bay Mỹ đánh phá, quân dân xã Trúc Lâm kịp thời cứu chữa thương binh, chôn cất liệt sĩ, cứu vớt và vận chuyển trên 30 tấn lương thực, 15 tấn vũ khí về nơi an toàn.
Ngày 23/01/1973, Hiệp định Pa ri được ký kết, Miền Bắc được hòa bình, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ. Nhân dân xã Trúc Lâm hăng hái khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định lại tổ chức HTX. Tháng 10/1974, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, các HTX quy mô thôn được sát nhập thành HTX nông nghiệp toàn xã.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cùng với làm nghĩa vụ đối với Nhà nước hàng ngàn tấn lương thực, thực phẩm, Trúc Lâm đã có 470 thanh niên tham gia bộ đội; 150 thanh niên tham gia Thanh niên xung phong, 406 lượt người tham gia dân công hỏa tuyến. Trong đó có 71 người con ưu tú quê hương dũng cảm hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc, 79 người con ưu tú là thương, bệnh binh. Hàng chục người con của Trúc Lâm trở thành cán bộ, trung, cao cấp của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, được tặng thưởng 2 Huân chương Quân công, 23 Huân chương Chiến công, 243 Huân - Huy chương Kháng chiến, hàng trăm Huân chương Giải phóng các loại. Nhiều chiến sĩ được công nhận là dũng sĩ diệt Mỹ, là chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng. Lực lượng vũ trang nhân dân xã Trúc Lâm 8 năm liền được công nhận là đơn vị quyết thắng và được tặng thưởng 02 Huân chương Chiến công hạng Ba. 05 bà mẹ được Nhà nước phong tặng và truy tặng Mẹ Việt Nam anh hùng. Năm 2000, lực lượng vũ trang và nhân dân xã Trúc Lâm vinh dự và tự hào được Nhà nước phong tặng Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
4. Thời kỳ 1975 1986:
4.1. Giai đoạn 1975 - 1980, tiến hành khôi phục kinh tế và thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi đã mở ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta bước vào giai đoạn cách mạng mới: Cả nước đi lên CNXH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Từ năm 1976 - 1980, Đảng bộ đã tiến hành 4 kỳ Đại hội, thời kỳ này Đảng bộ và nhân dân xã tập trung đẩy mạnh sản xuất lương thực, sắp xếp lại cơ cấu lao động, mô hình HTX, cơ cấu giống cây con, các đội chuyên ngành phục vụ nông nghiệp, xây dựng cơ bản. Tăng cường cơ sở vật chất, phát triển văn hóa giáo dục, đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, củng cố chính quyền và các tổ chức đoàn thể, nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại hình HTX, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển toàn diện của địa phương. chi viện sức người sức của bảo vệ biên giới phía Tây Nam và phía Bắc Tổ quốc.
Trong 2 cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới, xã Trúc Lâm có hàng trăm người con lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, trong đó có 05 người con của quê hương đã anh dũng hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
4.2. Giai đoạn 1981-1986, thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 3.
Thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ 3 và Chỉ thị 100-CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Việc khoán sản phẩm theo định mức và nhân dân được hưởng sản phẩm vượt khoán theo định mức đã kích thích được tinh thần hăng say lao động miệt mài của nhân dân. Vì thế, kết quả sản xuất tốt hơn, thu nhập của từng hộ xã viên tăng hơn và bước đầu đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Nhờ thực hiện tốt Chỉ thị 100 và chỉ đạo tốt phong trào xây dựng, phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn toàn xã, nên xã Trúc Lâm đã tạo được những chuyển biến tích cực rất đáng để tự hào. Năng xuất lúa đạt bình quân 5-6 tấn/ha, khoai lang đạt từ 10-15 tấn/ha, phong trào chăn nuôi phát triển đều khắp trong các thôn, mcác lĩnh vực văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, công tác xây dựng, phát triển Đảng và các đoàn thể quần chúng được củng cố và phát triển mạnh.
5. Thời kỳ 1986 đến nay.
5.1. Giai đoạn 1986- 2000
Tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, trên cơ sở quán triệt quan điểm đổi mới của Đảng. Đảng bộ xã Trúc Lâm đã đề ra phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của thời kỳ này là: Tiếp tục xây dựng Đảng bộ vững mạnh, thực sự đổi mới về cách làm, đổi mới tác phong làm việc, bảo đảm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, khai thác mọi tiềm năng lao động, đất đai, khắc phục hậu quả bão lụt. Coi sản xuất nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện tốt ba chương trình kinh tế lớn: Lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Năm 1990, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ 17 được tổ chức, Đảng bộ thống nhất đưa Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị vào cuộc sống, xã chia diện tích canh tác ra thành nhiều khẩu lao động. Nhân dân phấn khởi nhận ruộng khoán, đầu tư sức lao động, phân bón, kỹ thuật để tăng năng suất, đưa phần vượt khoán tăng cao.
Thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 27-9-1993 về cơ chế khoán và giao quyền sử dụng đất lâu dài cho nhân dân, nông dân trong xã đã tự chủ trong sản xuất, làm tốt khâu khuyến nông, chuyển giao khoa học - kỹ thuật, thâm canh cây trồng và vật nuôi...
Năm 1992, Đại hội Đảng bộ xã lần thứ 18 được tổ chức, Đại hội đã khẳng định: Toàn thể cán bộ, Đảng viên và nhân dân quyết tâm kế thừa và phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những khó khăn, tồn tại, phát huy tinh thần tự lực tự cường, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, truyền thống đoàn kết, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, chăm lo phát triển giáo dục, y tế, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, chăm lo bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ, củng cố các tổ chức chính quyền, phát huy hơn nữa vai trò của các đoàn thể quần chúng, đưa Trúc Lâm sớm trở thành một trong những xã khá toàn diện của huyện.
Tháng 9 năm 1995, Đảng bộ xã Trúc Lâm tiến hành Đại hội lần thứ 19, cùng với sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân, trong 5 năm 1995-2000, xã Trúc Lâm đã đạt được nhiều thành quả quan trọng trong trên tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị . Tổng sản lượng lương thực đạt bình quân 1.300 tấn/năm; 96% số hộ có trâu, bò. Đàn lợn là 1.500 con/ năm. Đàn gia cầm 18.000 con/năm. 120 hộ được giao trồng mới 153 ha rừng và chăm sóc bảo vệ hàng trăm ha rừng cũ, nhiều hộ hộ đăng ký nuôi trồng thủy sản nước mặn lợ và nước ngọt cả 2 khu vực nội để và ngoại đê. Hoạt động thương mại - dịch vụ phát triển. Xây dựng mới 6 phòng học, mua sắm hàng trăm bộ bàn ghế, tình trạng học 2 ca chấm dứt, chất lượng giáo dục tăng lên, Các hoạt động văn nghệ, thể thao, y tế được xã hội hóa. Công tác đền ơn đáp nghĩa xóa đói giảm nghèo trở thành phong trào quần chúng sâu rộng, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Công tác chính trị - tư tưởng - tổ chức được quan tâm; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý điều hành, tập hợp vận động, quần chúng được tăng cường.
5.2.Giai đoạn (2000 - 2010).
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ 20 (2000- 2005) và lần thứ 21 (2005-2010), cùng với sự nỗ lực của cán bộ và nhân dân. Nhiệm kỳ 2005- 2010
đã đạt được nhiều thành quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, đó là:
Tổng sản lượng lương thực năm 2005 đạt 1.400 tấn, đến năm 2010 đạt 1.500 tấn. Phong trào cải tạo vườn tạp trồng các loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao được nhân dân thực hiện, bước đầu cho thu hoạch khá, chăn phát triển, Đàn trâu, bò bình quân hàng năm là 1.200 con. Đàn lợn bình quân hằng năm là 3.300 con, nuôi trồng và khai thác, thủy sản phát triển mạnh, thu nhập bình quân mỗi năm ước đạt trên 950 triệu đồng. Hoạt động thương mại - dịch vụ hình thành phát triển nhanh nhất là từ khi Khu kinh tế Nghi Sơn ra đời, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trên địa bàn theo hướng tích cực. Cơ sở hạ tầng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội được quan tâm.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao được triển khai sâu rộng trên địa bàn toàn xã. 5/5 thôn Khai trương xây dựng làng văn hóa, hàng năm có trên 80% số hộ được công nhận gia đình văn hóa, 82% gia đình được công nhận ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo. Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân nâng lên rõ nét. Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện kịp thời.
Phong trào thi đua Dạy tốt - học tốt được đẩy mạnh, chất lượng dạy và học được nâng lên, tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp hàng năm đạt 98,7%. Công tác y tế chuyển biến tích cực, đội ngũ thầy thuốc có trình độ chuyên môn cao, thái độ phục vụ nhiệt tình, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững.
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền các đoàn thể nhân dân được quan tâm, Mặt trận Tổ quốc các tổ chức đoàn khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong đời sống xã hội.
5.3. Giai đoạn 2010 đến nay. Nhiệm kỳ 2010- 2015 và 2015- 2020
Đảng bộ và nhân dân xã Trúc Lâm tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, tập trung lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đề ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ các đoàn thể chính trị- xã hội.
Về phát triển kinh tế: Diện tích gieo trồng bình quân là 420,97 ha/năm. Sản lượng lương thực bình quân hàng năm là 1.173 tấn. Công tác bảo vệ , chăm sóc, phòng cháy chữa cháy rừng được quan tâm. Đàn trâu, bò bình quân hàng năm là 650 con, đàn lợn là 3.300 con, đàn gia cầm là 36.000 con. Sản lượng khai thác từ nuôi trồng và khai thác tự nhiên bình quân hàng năm là 49 tấn. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại - dịch vụ ngày càng phát triển kể cả quy mô, hình thức, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều lao động. Thu nhập từ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, thương mại- dịch vụ bình quân hàng năm là 95 tỷ đồng,
Cơ sở hạ tầng như điện, đường ,trường, trạm được đầu tư xây dựng, được sự quan tâm của Nhà nước, sự đóng góp của nhân dân và hỗ trợ của các doanh nghiệp trên địa bàn, toàn xã đã đầu tư xây dựng được 15/25 km đường giao thông nông thôn, trị giá 19,5 tỷ đồng; xây dựng mới nhà lớp học 2 tầng 6 phòng học và Nhà hiệu bộ và các công trình phụ trợ tại trường Trung học cơ sở Trúc Lâm; xây dựng 10 phòng trường Mầm non trung tâm và các công trình phụ trợ ; xây dựng 6 phòng học 02 tầng; khuôn viên nhà vệ sinh và tu sửa các hạng mục trường học tại Trường Tiểu học; xây dựng Trạm Y tế 2 tầng, 13 phòng, nhà bếp ăn và các hạng mục phụ trợ ; Trung tâm văn hóa - thể thao xã Trúc Lâm ; Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sỹ và một số công trình khác trị giá gần 30 tỷ đồng.
Văn hóa - xã hội có nhiều đổi mới. Công tác thông tin, tuyên truyền đã bám sát và đưa tin kịp thời các nhiệm vụ trọng tâm của cấp ủy, chính quyền đề ra. Công tác giáo dục - đào tạo đạt kết quả, tổng kết năm học 2018-2019, trường Trung học cơ sở có 16 học sinh giỏi cấp huyện, 29 học sinh giỏi cấp trường, 97 em học sinh tiên tiến; Trường Tiểu học có 157 học sinh giỏi toàn diện; Trường Mầm non có 201 học sinh đạt bé giỏi, bé ngoan cấp trường ; 06 Học sinh đạt giải cá nhân bé khỏe bé tài năng cấp huyện (01 xuất sắc, 05 giải nhì).
Công tác y tế được quan tâm, trên địa bàn của xã không có dịch bệnh, không để xảy ra ngộ độc thực phẩm ở người; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm nhanh, trẻ em được tiêm chủng đầy đủ các loại vác xin. Các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ kịp thời
Quốc phòng - an ninh: Duy trì nghiêm túc chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, làm tốt công tác quản lý lực lượng quân dự bị động viên, tuyển quân, tuyển sinh, hoàn thành chỉ tiêu giao quân; công tác hậu phương quân đội được quan tâm.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở,
Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ các đoàn thể chính trị- xã hội:
Quan tâm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Đề cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, đảng viên. Gắn với xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội vững mạnh.
Bộ máy chính quyền luôn được tăng cường củng cố, đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo có trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức tốt, đủ sức để quản lý và điều hành xã hội.
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân phối hợp tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, xây dựng khối đại đoàn kết tạo thành sức mạnh của toàn nhân dân và xã hội, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành các mục tiêu, kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của địa phương.
III. PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ ĐẾN NĂM 2020
1. Giúp nhau phát triển kinh tế
Thực hiện tốt cuộc vận động Ngày vì người nghèo, góp phần xóa đói; giảm hộ nghèo trong xã xuống dưới mức bình quân của huyện và của tỉnh;
Có 80% trở lên hộ gia đình làm nông nghiệp trong xã được tuyên truyền, phổ biến khoa học - kỹ thuật về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp;
Có trên 70% hộ gia đình tham gia các hình thức hợp tác phát triển kinh tế;
Có nhiều hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh, thu hút lao động việc làm, nâng cao thu nhập của người dân.
2. Nâng cao chất lượng xây dựng gia đình văn hóa, thôn văn hóa
Có trên 60% gia đình được công nhận Gia đình văn hóa 3 năm trở lên;
Có 70% trở lên hộ gia đình cải tạo vườn tạp, không để đất hoang, xây dựng khuôn viên nhà ở xanh, sạch, đẹp;
Có 15% trở lên hộ gia đình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa và dịch vụ nông thôn;
Có trên 50% thôn được công nhận và giữ vững danh hiệu Làng văn hóa liên tục từ 5 năm trở lên;
Có 100% thôn văn hóa vận động được nhân dân đóng góp xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội ở cộng đồng.
3. Xây dựng thiết chế và phong trào văn hóa thể thao cơ sở.
Trung tâm Văn hóa - Thể thao xã có cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm; ổn định về tổ chức; hoạt động thường xuyên, hiệu quả; từng bước đạt chuẩn theo quy định của Bộ văn hóa, thể thao và Du lịch.
100% các thôn có Nhà văn hóa - Khu thể thao; trong đó 50% Nhà văn hóa - Khu thể thao đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch;
100% các thôn duy trì được phong trào sinh hoạt Câu lạc bộ; phong trào văn hóa, văn nghệ và thể thao quần chúng. Hằng năm, xã tổ chức được Liên hoan văn nghệ quần chúng và thi đấu các môn thể thao;
Di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan thiên nhiên được bảo vệ; các hình thức sinh hoạt văn hóa, thể thao truyền thống và thuần phong mỹ tục của địa phương được bảo tồn.
4. Xây dựng nếp sống văn minh, môi trường văn hóa nông thôn.
75% trở lên hộ gia đình thực hiện tốt các quy định về nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội theo các quy định của Bộ Văn hóa- thể thao và Du lịch;
Xây dựng và thực hiện nếp sống văn minh nơi công cộng, trong các sinh hoạt tập thể, cộng đồng; không có tệ nạn xã hội phát sinh, giảm mạnh các tệ nạn xã hội hiện có;
100% thôn có tổ vệ sinh, thường xuyên quét dọn, thu gom rác thải về nơi quy định. Xã tổ chức tốt việc xử lý rác thải tập trung theo quy chuẩn về môi trường; nghĩa trang xã, thôn được xây dựng và quản lý theo quy hoạch;
Đạt chất lượng, hiệu quả thực hiện các phong trào: Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa; phòng chống tội phạm; bảo vệ an ninh trật tự an toàn xã hội; đền ơn đáp nghĩa; nhân đạo từ thiện; an toàn giao thông và các phong trào văn hóa-xã hội khác ở nông thôn.
5. Chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương
90% trở lên người dân được phổ biến và nghiêm chỉnh thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phươnng.
80% trở lên hộ gia đình nông dân tham gia thực hiện cuộc vận động xây dựng nông thôn mới; tham gia xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới.
100% thôn xây dựng và thực hiện hiệu quả quy ước cộng đồng, quy chế dân chủ ở cơ sở; không có khiếu kiện đông người, trái pháp luật;
Các cơ sở kinh doanh dịch vụ văn hóa, thông tin, thể thao và du lịch được xây dựng theo quy hoạch và quản lý theo pháp luật; không tàng trữ và lưu hành văn hóa phẩm có nội dung độc hại.
PHẦN KẾT
Trải qua quá trình lao động sản xuất, xây dựng, chiến đấu bảo vệ quê hương đã tạo dựng cho con người và vùng đất xã Trúc Lâm nhiều truyền thống tốt đẹp. Đó là đoàn kết, cần cù, sáng tạo, sống giàu tình cảm, nhân nghĩa và vị tha. Đồng thời, tạo dựng cho nhân dân xã Trúc Lâm những phong tục tập quán đặc sắc, phản ánh đời sống vật chất no đủ, đời sống tinh thần lành mạnh, phong phú, gắn bó mật thiết với xóm làng, yêu quê hương, đất nước nồng nàn, sâu sắc.
Ngày nay, được hưởng những thành quả tốt đẹp của một đất nước Việt Nam hòa bình, ổn định và phát triển, chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ công ơn trời biển của các thế hệ ông cha, các anh hùng liệt sỹ, các thương binh, bệnh binh, đã chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội và mãi mãi khắc sâu lời dạy của Bác Hồ:
Các Vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước"
Với truyền thống của quê hương, niềm tin sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết nhất trí của toàn Đảng bộ và nhân dân, sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành từ huyện đến tỉnh, xã Trúc Lâm nhất định sẽ vượt qua những khó khăn thử thách, tiếp tục xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp và quyết tâm xây dựng thành công Xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới trong thời gian sớm nhất.
Nơi nhận: - BCĐ Tỉnh ( Báo cáo); - Ban chỉ đạo huyện Tĩnh Gia ( Báo cáo); - Ban Thường vụ Đảng ủy; - TTHĐND xã; - Các thành viên BCĐ xã; - MTTQ các đoàn thể CT-XH xã; - Các thôn; - Lưu: VT. | TM. ỦY BAN NHÂN DÂN CHỦ TỊCH Đỗ Văn Hưng |